Thứ Hai, 22 tháng 9, 2025

秋夜旅懷吟 - Thu dạ lữ hoài ngâm

秋夜旅懷吟   Thu dạ lữ hoài ngâm


Sách Khảo sát về thơ Đinh Nhật Thận qua Thu dạ lữ hoài ngâm của Nguyễn Tài Chất và Nguyễn Tài Cẩn (Đại học Quốc gia Hà Nội xuất bản, 2008) ghi tác giả là Đinh Nhật Thận. Bản này dựa trên bản chép tay do người cháu đích tôn của Đinh Nhật Thận tặng lại cho ông Nguyễn Tài Chất, và đã được đối chiếu với các bản của Trường Thịnh Đường (in mộc bản năm 1902) và bản Nguyễn Văn Đề công bố trong cuốn Trong 99 chóp núi (do Hà Xuân Tề đề tựa ngày 4-7-1941) tại Huế. Theo đó, Đinh Nhật Thận làm bài này trong thời gian bị triều đình bắt giữ cho rằng ông liên luỵ với khởi nghĩa của Cao Bá Quát tỏ nỗi lòng nhớ quê nhà.



秋夜靜天光隱約 Thu dạ tĩnh thiên quang ẩn ước
隔疏簾淡酌金罍 Cách sơ liêm đạm chước kim lôi
天時人事相催 Thiên thời nhân sự tương thôi
浮生若夢幾回為歡 Phù sinh nhược mộng kỷ hồi vi hoan
人對景花間月照 Nhân đối cảnh hoa gian nguyệt chiếu
景撩人樹梢風吹 Cảnh liêu nhân thụ tiêu phong xuy
這般料少人知 Giá ban liệu thiểu nhân tri
閒來風月與誰為秋 Nhàn lai phong nguyệt dữ thuỳ vi thu
詩四絕怡愉雅愛 Thi tứ tuyệt di du nhã ái
酒三杯瀟洒離懷 Tửu tam bôi tiêu sái ly hoài
燈前獨對書齋 Đăng tiền độc đối thư trai
傷心客地有懷古人 Thương tâm khách địa hữu hoài cổ nhân
香水外忽聞漁韻 Hương thuỷ ngoại hốt văn ngư vận
從何來棹進江邊 Tòng hà lai trạo tiến giang biên
徘徊月夜霜天 Bồi hồi nguyệt dạ sương thiên
寒山暗認客船更非 Hàn sơn ám nhận khách thuyền cánh phi
曲江水何時大杜 Khúc giang thuỷ hà thì Đại Đỗ
一孤舟繫故園心 Nhất cô chu hệ cố viên tâm
時留八首詩吟 Thời lưu bát thủ thi ngâm
令人旅思轉深鄉情 Linh nhân lữ tứ chuyển thâm hương tình
昔我往青青柳絮 Tích ngã vãng thanh thanh liễu nhứ
兩三聲初語黃鶯 Lưỡng tam thanh sơ ngữ hoàng oanh
而今菊已含英 Nhi kim cúc dĩ hàm anh
柳陰庭外寒鳴秋蟬 Liễu âm đình ngoại hàn minh thu thuyền
昔我去翻翻桃臉 Tích ngã khứ phiên phiên đào kiểm
兩三枝初占東風 Lưỡng tam chi sơ chiếm đông phong
而今蘭已成叢 Nhi kim lan dĩ thành tùng
桃夭軒外落從寒霜 Đào yêu hiên ngoại lạc tùng hàn sương
胡為乎凄涼客舍 Hồ vi hồ thê lương khách xá
日優遊幾個冠童 Nhật ưu du kỷ cá quan đồng
安能夜夜書房 An năng dạ dạ thư phòng
芭蕉泣露昆虫鳴秋 Ba tiêu khấp lộ côn trùng minh thu
胡為乎怡愉旅館 Hồ vi hồ di du lữ quán
歲逡巡已半霜煙 Tuế thuân tuần dĩ bán sương yên
安能暮暮書軒 An năng mộ mộ thư hiên
風搖庭竹月懸屋梁 Phong dao đình trúc nguyệt huyền ốc lương
不是做何郎投筆 Bất thị tố hà lang đầu bút
將忠肝為國從軍 Tương trung can vị quốc tòng quân
此身空冒風塵 Thử thân không mạo phong trần
坐中虛視寢時徒聞 Toạ trung hư thị tẩm thì đồ văn
不是做何人捧檄 Bất thị tố hà nhân phủng hịch
將孝心離戚從官 Tương hiếu tâm ly thích tòng quan
他鄉何事盤桓 Tha hương hà sự bàn hoàn
白雲飛處牡丹開時 Bạch vân phi xứ mẫu đơn khai thì
今日自海濱遠顧 Kim nhật tự hải tân viễn cố
一輕帆直渡歸陵 Nhất khinh phàm trực độ quy lăng
鄉魂沸沸如甑 Hương hồn phí phí như tăng
逐帆忽已破層層波 Trục phàm hốt dĩ phá tằng tằng ba
明日自山家遠眺 Minh nhật tự sơn gia viễn diểu
片孤雲帶曉浮空 Phiến cô vân đới hiểu phù không
鄉心裊裊如蓬 Hương tâm niểu niểu như bồng
隨雲忽已過重重山 Tuỳ vân hốt dĩ quá trùng trùng san
何日是鄉關雁信 Hà nhật thị hương quan nhạn tín
悠悠難寫盡心情 Du du nan tả tận tâm tình
夜聞妙諦鍾聲 Dạ văn Diệu Đế chung thanh
海門鼓響御城炮催 Hải môn cổ hưởng ngự thành pháo thôi
江曲曲腸迴曲曲 Giang khúc khúc trường hồi khúc khúc
景悠悠夜復悠悠 Cảnh du du dạ phục du du
蕭條館旅亭秋 Tiêu điều quán lữ đình thu
鄰家樁楮江頭棹聲 Lân gia thung chử giang đầu trạo thanh
嗟客地吁縈心事 Ta khách địa hu oanh tâm sự
嘆閨人情緒可憐 Thán khuê nhân tình tự khả liên
更深燈滅案前 Canh thâm đăng diệt án tiền
含情掩扇空懸月明 Hàm tình yểm phiến không huyền nguyệt minh
孤枕裡三更寤寐 Cô chẩm lý tam canh ngụ mị
片幽懷誰是為憐 Phiến u hoài thuỳ thị vi lân
情頭夜半無人 Tình đầu dạ bán vô nhân
睡來報蝶醒辰鳴雞 Thuỵ lai báo điệp tỉnh thần minh kê
有時或鄉閨夕炤 Hữu thì hoặc hương khuê tịch chiếu
下堂來欲造花樓 Hạ đường lai dục tháo hoa lâu
忽驚燕葺泥巢 Hốt kinh yến tập nê sào
鸞羞炤鏡鳳愁懶梳 Loan tu chiếu kính phụng sầu lãn sơ
有時或織機夜靜 Hữu thì hoặc chức cơ dạ tĩnh
呼童來初整燈明 Hô đồng lai sơ chỉnh đăng minh
忽聞雁渡江聲 Hốt văn nhạn độ giang thanh
机慵足踏梭停手拋 Cơ dung túc đạp thoa đình thủ phao
可憐夜焚膏達旦 Khả lân dạ phần cao đạt đán
夜沉沉不見佳音 Dạ trầm trầm bất kiến giai âm
擲梭望望庭陰 Trịch thoa vọng vọng đình âm
霜寒蟋蟀咱吟聲愁 Sương hàn tất suất thính ngâm thanh sầu
望不見悠悠我獨 Vọng bất kiến du du ngã độc
顧閨門載復言還 Cố khuê môn tải phục ngôn hoàn
咱家雞唱西欄 Thính gia kê xướng tây lan
含情倚几挑殘孤燈 Hàm tình ỷ kỷ khiêu tàn cô đăng
可憐日燈庭自早 Khả lân nhật đăng đình tự tảo
日斜斜不到回書 Nhật tà tà bất đáo hồi thư
挈衣步步康衢 Khiết y bộ bộ khang cù
蟬鳴楊柳帶愁眉看 Thuyền minh dương liễu đới sầu mi khan
望不見翻翻我獨 Vọng bất kiến phiên phiên ngã độc
顧琴軒強欲為情 Cố cầm hiên cưỡng dục vi tình
忽瞻蝶戲蘭屏 Hốt chiêm điệp hý lan bình
含棲穿屩復行西園 Hàm thê xuyên cược phục hành tây viên
今必謂秋天靜好 Kim tất vị thu thiên tĩnh hảo
我良人將到歸期 Ngã lương nhân tương đáo quy kỳ
遑知世路蹺蹊 Hoàng tri thế lộ nghiêu hề
關山千里未期曷來 Quan san thiên lý vị kỳ hạt lai
今必謂我離永久 Kim tất vị ngã ly vĩnh cửu
自長安或抱衾裯 Tự Trường An hoặc bão khâm trù
風情慣似風流 Phong tình quán tự phong lưu
繁花矧又皇州帝城 Phồn hoa thẩn hựu hoàng châu đế thành
苟非有人情者也 Cẩu phi hữu nhân tình giả dã
胡而春而夏而秋 Hồ nhi xuân nhi hạ nhi thâu (thu)
由來紫閣紅樓 Do lai tử các hồng lâu
英雄不住丈夫難持 Anh hùng bất trụ trượng phu nan trì
如此者誰知之者 Như thử giả thuỳ tri chi giả
煙波中使我心愁 Yên ba trung sử ngã tâm sầu
昂藏豈少年遊 Ngang tàng khởi thiếu niên du
風流舊態江湖故家 Phong lưu cựu thái giang hồ cố gia
旅景每從哦裡痛 Lữ cảnh mỗi tòng nga lý thống
鄉魂空向夢中遊 Hương hồn không hướng mộng trung du
江山客亦知乎 Giang sơn khách diệc tri hồ
情中更切路途艱難 Tình trung cánh thiết lộ đồ gian nan
雖曰已藻蘋婦事 Tuy viết dĩ tảo tần phụ sự
內齊家上祀祖先 Nội tề gia thượng tự tổ tiên
澗毛潢水微虔 Giản mao hoàng thuỷ vi kiền
安知主饋能賢婦人 An tri chủ quỹ năng hiền phụ nhân
可知者十分家幼 Khả tri giả thập phần gia ấu
一門中共保無危 Nhất môn trung cộng bảo vô nguy
別時正在孩兒 Biệt thì chính tại hài nhi
年來想已髮垂牙生 Niên lai tưởng dĩ phát thuỳ nha sinh
可愛者其兄之子 Khả ái giả kỳ huynh chi tử
年十三十四中來 Niên thập tam thập tứ trung lai
吾兄亦曰幸哉 Ngô huynh diệc viết hạnh tai
底今未覺誰開學堂 Để kim vị giác thuỳ khai học đường
可思者同窗二契 Khả tư giả đồng song nhị khế
芝蘭香細細猶聞 Chi lan hương tế tế do văn
馬杯自挹輕塵 Mã bôi tự ấp khinh trần
渭城此後故人亦辭 Vị Thành thử hậu cố nhân diệc từ
不知後北圻起匪 Bất tri hậu Bắc kỳ khởi phỉ
二吾兄已未回辰 Nhị ngô huynh dĩ vị hồi thần
嗟哉同病相憐 Ta tai đồng bệnh tương lân
一瀟湘一向秦一方 Nhất Tiêu tương nhất hướng Tần nhất phương
將何日更相對語 Tương hà nhật cánh tương đối ngữ
敘閨情又敘客衷 Tự khuê tình hựu tự khách trung
而今秋月秋風 Nhi kim thu nguyệt thu phong
秋吟秋飲情中者誰 Thu ngâm thu ẩm tình trung giả thuỳ
對離景淚垂雙眼 Đối ly cảnh lệ thuỳ song nhãn
顧香關路限重山 Cố hương quan lộ hạn trùng san
酒殘獨倚欄杆 Tửu tàn độc ỷ lan can
覺來眼看夜還淒涼 Giác lai nhãn khán dạ hoàn thê lương



Đêm thu lặng, bóng giời thấp thoáng,
Cách rèm thưa chuốc chén gượng nguôi.
“Thiên thời nhân sự tương thôi”,
Kiếp chiêm bao dễ mấy hồi người ta?

Người đối cảnh, trước hoa trăng tỏ,
Cảnh trêu người, ngọn gió rung cây.
Nỗi niềm ai kẻ tỏ hay?
Cùng ai trăng gió đêm này với thu.

Thơ nhã ái bốn câu buông vận,
Rượu ly hoài ba chén làm khuây.
Trước đèn trong chốn thư trai,
Chạnh lòng đất khách, nhớ người đời xưa.

Ngoài Hương thuỷ tiếng ngư văng vẳng,
Thuyền từ đâu chèo thẳng biên giang?
Lờ mờ đêm nguyệt trời sương,
Thuyền ai tưởng khách non Hàn, lại không!

Khúc ngư thuỷ nhớ ông Đại Đỗ,
Buộc con thuyền lòng cũ bơ vơ.
Hứng thu để tám bài thơ,
Xui người đất khách ngẩn ngơ tình làng.

Xưa ta đi liễu đang thanh tế,
Chim hoàng anh mới kể ba câu.
Bằng nay cúc đã hoa thâu,
Liễu kia cũng nghĩ âu sầu vì ve.

Khi ta đi đào khoe tiếu kiểm,
Gió đông phong mới điểm ba hàng.
Bằng nay lan đã chồi sương,
Đào non nghĩ cũng võ vàng vì thu.

Làm chi vậy buồn rầu đất khách,
Ngày quán đồng mượn thích làm khuây.
Có đêm nương bóng hồi tây,
Tiếng sương khóc lá, hơi bay gọi trùng.

Làm chi vậy lạnh lùng quán lữ,
Năm, sương yên hết nửa đi rồi.
Có đêm ngồi nhẫn thư trai,
Gió lay bên trúc, nguyệt cài trên lương.

Nào có phải như chàng ném bút,
Vì vua mà đồng mác cho cam.
Luống đem thân thế cát lầm,
Thấy ngồi hổ mắt, nghe nằm thẹn tai.

Nào có phải như ai vâng hịch,
Vì thân mà xa cách cho xong.
Bỗng không cách địa binh bồng,
Trông mây lại nhớ, xem bông lại buồn.

Ngày nay đứng trông miền bể rộng,
Một cánh buồm gióng thẳng về cồn.
Lòng quê đâu đã cuồn cuồn,
Phút theo buồm vượt máy ngàn sóng khơi.

Ngày nay đứng trông nơi non thẳm,
Một làn mây sớm ngắm trên không.
Lòng quê đâu đã bồng bồng,
Phút theo mây kéo mấy trùng non xa.

Trông tin nhạn biết là đâu tá,
Tâm tình này ai tả cho nên.
Chuông chùa Diệu Đế cho rền,
Trống vang cửa bể, súng rên thành vàng.

Sông quạnh quẽ ruột càng quằn quại,
Cảnh đìu hiu dạ lại đìu hiu.
Lữ du ai chẳng tiêu điều,
Tiếng chày trong xóm tiếng chèo ngoài sông.

Than đất khách não nùng tâm sự,
Thương người quê tình tự bây giờ.
Đèn khuya cơn tỏ cơn mờ,
Gẫm tình che quạt luống chờ bóng trăng.

Năm canh những mơ màng trên gối,
Mảnh tình riêng biết nói cùng ai.
Thương thay đêm vắng không người,
Ngủ thời bướm báo, dậy thời gà kêu.

Hoặc có lúc ban chiều trong khổn,
Bước xuống thềm lại muốn lên lầu.
Phút nghe con én kêu sầu,
Lược rầu tóc chải, gương rầu mặt soi.

Hoặc có lúc đưa thoi đêm tối,
Gọi con tì vừa tới điểm đăng.
Phút nghe tiếng nhạn khơi chừng,
Máy rời chân đạp, thoi ngừng tay đưa.

Thương thay có đêm chờ nửa gối,
Đêm gần qua chẳng thấy thư về.
Gác thoi ra đứng bên hè,
Tai nghe tiếng dế rè rè khóc sương.

Trông chẳng thấy, chán chường than thở,
Đoái phòng khuê muốn trở gót giầy.
Gà ai eo óc hồi tây,
Gẫm tình tựa gối liền tay khêu đèn.

Thương thay có ngày nhìn sáu khắc,
Ngày gần tàn chẳng thấy thư sang.
Xuống thềm ra đứng bên đàng,
Mày sầu lá liễu hàng hàng khóc ve.

Trông chẳng thấy lại về đứng đợi,
Đoài cầm hiên tay gợi ngón đàn.
Bướm đâu trêu cợt bình lơn,
Buồn tình mang dép ra vườn hái hoa.

Rày hẳn bảo giời đà mát mẻ,
Lương nhân ta có dễ gần về.
Biết đâu đường thế nhiêu khê,
Dặm ngàn hồ dễ đi về cho năng.

Rày hẳn nói mình chừng lâu ở,
Ôm khâm trù hay đã có người.
Phong lưu vốn đã quen rồi,
Phồn hoa lịch sự lại mùi Tràng An.

Nếu chẳng thể bàn hoàn chi mãi,
Hết xuân rồi hạ lại sang thu.
Lầu hồng cung cấm ấy ru,
Anh hùng lại với trượng phu ai từ?

Như thế ấy bây giờ ai biết,
Trông yên ba khôn xiết dạ sâu.
Há còn trai trẻ chi đâu,
Phong lưu thói cũ giang hồ lối xưa.

Cảnh du lữ câu thơ thổn thức,
Bóng hương quan trước mắt mơ màng.
Non sông khách có biết chăng,
Vẫn tình thì nhớ nhưng đường thì khơi.

Tuy rằng nói đã người tần tảo,
Trên tôn đường trọng đạo tề gia.
Rau khe nước suối cũng là,
Mình xa chẳng biết ở nhà làm sao.

Duy cho trẻ đứa nào đứa ấy,
Trong gia đình đều thấy yên vui.
Lúc đi trẻ mới hay cười,
Tóc răng nay đã ra người lớn khôn.

Và thằng cháu giời thương cũng khá,
Tuổi năm nay chừng đã trưởng thành.
Phúc nhà mừng trộm cho anh,
Năm nay biết đã học hành cùng ai.

Bạn đèn sách một hai tri thức,
Mùi lan chi sực nức một nhà.
Từ phen chuốc chén quan hà,
Vị Thành lúc ấy rồi mà Dương Quan.

Sau chẳng biết ngoài miền bắc động,
Hai anh ta có chóng hồi hương?
Thương ôi đồng bệnh cùng thương,
Một Tần lại một Tiêu Tương một giời.

Đến bao giờ cùng ngồi kể chuyện,
Kể hương tình cho đến khách trung.
Mà nay nào nguyệt nào phong,
Nào thi nào tửu biết cùng ai hay.

Sầu ly biệt tuôn đầy hai mắt,
Bóng hương quan xa khuất dặm ngàn.
Rượu rồi ngồi dựa lan can,
Chiêm bao tỉnh giấc đêm tàn về thu.

Không có nhận xét nào:

Đăng nhận xét